Thư như nghiên cứu về thuốc thì có một số loại kháng sinh có nguy cơ thay đổi trạng thái tâm thần của người dùng. Đây là một số tác dụng phụ cần có cơ chế phòng ngừa, đòi hỏi cần phải thận trọng trong sử dụng và sự lựa chọn thuốc, cá nhân hóa liều phù hợp, thường xuyên theo dõi, và giới hạn thời gian điều trị thích hợp. Bệnh nhân và gia đình cần được tư vấn, đánh giá lâm sàng về những yếu tố nguy cơ gây biến cố bất lợi, đồng thời việc theo dõi sát các dấu hiệu và triệu chứng sẽ hỗ trợ chẩn đoán sớm.
Khi bệnh nhân có những thay đổi trạng thái tâm thần, bác sĩ luôn xem xét lại các loại thuốc mà bệnh nhân đang dùng kèm. Tuy nhiên, kháng sinh là loại thuốc thường bị bỏ qua nhất. Thực tế không phải vậy, kháng sinh được chứng minh có liên quan đến một loạt các triệu chứng thần kinh bao gồm: buồn ngủ, rối loạn giấc ngủ, lú lẫn, mê sảng, co giật, biến đổi tâm trạng, rối loạn tâm thần và ảo giác.
Vì sao kháng sinh gây thay đổi trạng thái tâm thần?
Triệu chứng và tần suất thay đổi trạng thái tâm thần phụ thuộc vào loại thuốc, nhóm thuốc sử dụng, gia tăng theo liều, tuổi và nặng nề hơn nếu đi kèm rối loạn hệ thần kinh trung ương, rối loạn chức năng thận đã có sẵn. Với tần suất được kê đơn cao như hiện nay, bác sĩ và dược sĩ cần phải nhận thức đúng nguy cơ gây thay đổi trạng thái tâm thần của thuốc kháng sinh. Bên cạnh đó, bệnh nhân và gia đình cần được tư vấn đầy đủ các tác dụng phụ, bởi hiểu biết và sử dụng kháng sinh đúng cách sẽ làm giảm tỷ lệ mắc bệnh.
Cơ chế gây thay đổi trạng thái tâm thần của kháng sinh vẫn còn là bí ẩn lớn. Kháng sinh có thể tác động trực tiếp làm thay đổi chức năng hệ thần kinh trung ương thông qua tác động lên các chất đối kháng dẫn truyền xung động thần kinh GABA (các chất đối kháng axit gamma-aminobutyric). Điển hình của cơ chế này là nhóm fluoroquinolon, cephalosporin, và penicilin.
Kháng sinh có thể tác động gián tiếp làm thay đổi trạng thái tâm thần, ví dụ, viêm thứ phát gia tăng từ viêm màng não vô khuẩn khi sử dụng trimethoprim hoặc sulfamethoxazole ở bệnh nhân cao tuổi hoặc suy giảm miễn dịch.
Ngoài ra, tương tác thuốc giữa kháng sinh và các thuốc dùng kèm cũng có thể gây ra hiệu ứng lên hệ thần kinh trung ương. Ví dụ, hội chứng serotonin khi sử dụng chung linezolid với các thuốc serotonergic khác hoặc sự ức chế kháng sinh của enzym cytochrome P450, dẫn đến tích lũy các thuốc gây rối loạn hệ thần kinh trung ương khác.
Một số kháng sinh cụ thể
Các kháng sinh nhóm fluoroquinolones, cephalosporin và macrolide được ghi nhận là những tác nhân gây nguy cơ phổ biến nhất, cụ thể như sau:
Phòng ngừa và kiểm soát
Việc phòng ngừa các tác dụng phụ thần kinh đòi hỏi phải thận trọng trong sử dụng và sự lựa chọn thuốc, cá nhân hóa liều phù hợp, thường xuyên theo dõi, và giới hạn thời gian điều trị thích hợp. Bệnh nhân và gia đình cần được tư vấn, đánh giá lâm sàng về những yếu tố nguy cơ gây biến cố bất lợi, đồng thời việc theo dõi sát các dấu hiệu và triệu chứng sẽ hỗ trợ chẩn đoán sớm.
Nếu có nghi ngờ thay đổi trạng thái tâm thần liên quan đến kháng sinh, tốt nhất nên: giảm liều thuốc, lựa chọn các kháng sinh khác, hoặc ngưng thuốc nếu có thể. Trong hầu hết các trường hợp, các triệu chứng độc thần kinh sẽ biến mất trong vòng 48 giờ sau khingừng dùng thuốc. Với một số trường hợp nặng, có thể sử dụng thuốc giải độc thần kinh hoặc các biện pháp hỗ trợ tạm thời khác.
Nguồn: Từ báo cáo của Tiến sĩ Dược học Adrienne M. Rouiller, Trung tâm y tế Albany, NewYork, Mỹ.